Đại cương
Vẫy nến là một bệnh da kéo dài, khiến da bị viêm. Những mảng da dày, đỏ được phủ bởi vẫy bạc. Khoảng 5,5 triệu người Mỹ mắc bệnh, chiếm 1-2% dân số.
Người bệnh vẫy nến có thể bị đau, ngứa, giới hạn cử động các khớp và ưu sầu.
Tài liệu này giải thích bệnh vẫy nến, bao gồm triệu chứng, nguyên nhân, chẩn đoán và các cách điều trị.
Vẫy nến
Vẫy nến là một bệnh mạn tính. Những mảng da bị viêm và phát sinh vẫy. Vẫy xuất hiện khi các tế bào lớp bên ngoài da sinh sản nhanh hơn bình thường và dồn lên bề mặt da. Dù bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi, nam nữ bằng nhau, vẫy nến chủ yếu ảnh hưởng đến người lớn.
Người bị vẫy nến có thể bị đau, ngứa, giới hạn cử động các khớp và ưu sầu. Vẫy nến thường gây ra những mảng da dày, đỏ, phủ vẫy bạc. Những mảng này thường ngứa và có thể nóng bỏng. Da ở các khớp có thể nứt.
Vẫy nến thường xuất hiện nhất ở khủy tay, đầu gối, da đầu, lưng dưới thấp, mặt, lòng bàn tay, lòng bàn chân, nhưng nó có thể xuất hiện trên da ở bất kỳ vị trí nào.
Vẫy nến cũng có thể xuất hiện trên móng tay, móng chân và các mô mềm bên trong miệng và cơ quan sinh dục. Khoảng 15% người bệnh vẫy nến bị viêm ở khớp, gây ra các triệu chứng viêm khớp. Tình trạng này gọi là viêm khớp vẫy nến.
Nguyên nhân
Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng vẫy nến có thể là một rối loạn hệ miễn dịch. Hệ thống miễn dịch bao gồm các tế bào máu đặc biệt, vốn xác định và tiêu diệt chất lạ, gồm cả vi rút và vi khuẩn. Những tế bào máu này được gọi là bạch huyết cầu. Có hai loại bạch cầu: tế bào T và tế bào B. Khi tế bào T xác định một chất lạ hoặc một sinh vật lạ, chúng tấn công nó.
Khi tế bào B xác định một chất lạ, chúng bài tiết những hóa chất đặc biệt gọi là kháng thể. Những kháng thể này bám vào chất lạ và tiêu hủy nó. Vẫy nến gây ra hoạt động bất thường của tế bào T thuộc hệ thống miễn dịch trên da. Những tế bào T này khiến da bị viêm và sinh sản quá mức.
Khoảng 1/3 các trường hợp vẫy nến có tính di truyền. Các nhà nghiên cứu đang khảo sát nhiều gia đình mắc bệnh vẫy nến để xác định các yếu tố gen gây nên bệnh này. Người bệnh vẫy nến có thể nhận thấy các triệu chứng trở nặng và sau đó giảm nhẹ.
Các tình trạng có thể khiến bệnh trở nặng gồm có thay đổi khí hậu, nhiễm trùng, stress và da khô. Các thuốc gọi là chẹn beta để trị tăng huyết áp và lithium để trị trầm cảm có thể kích phát những đợt vẫy nến.
Chẩn đoán & Phân loại
Thầy thuốc thường chẩn đoán vẫy nến sau khi thăm khám da cẩn thận. Tuy nhiên, chẩn đoán có thể khó khăn bởi vì vẫy nến đôi khi trông giống như các bệnh da khác.
Thầy thuốc có thể phải sinh thiết da. Mẫu da được nhà giải phẫu bệnh học xem xét dưới kính hiển vi. Có nhiều loại vẫy nến. Loại thường gặp nhất là vẫy nến mảng.
Trong vẫy nến mảng, các tổn thương màu đỏ dưới đáy và phủ vẫy bạc.
Vẫy nến giọt. Các tổn thương nhỏ xuất hiện ở bụng, ngực, lưng, tứ chi và da đầu. Vẫy nến giọt thường bị kích phát bởi nhiễm khuẩn, như Streptococcus.
Vẫy nến mủ. Những vết phồng chứa dịch không nhiễm trùng xuất hiện trên da. Những đợt vẫy nến mủ có thể bị kích phát bởi thuốc, nhiễm trùng, căng thẳng thần kinh hoặc phơi nhiễm hóa chất nào đó. Vẫy nến mủ có thể ở từng vùng nhỏ hẹp hoặc rộng trên cơ thể.
Vẫy nến nếp. Những mảng rộng, khô, láng, đỏ sẩm xuất hiện ở các nếp gấp da gần cơ quan sinh dục, dưới vú hoặc trong nách. Vẫy nến nếp có liên quan đến sự tăng nhạy cảm đối với sự cọ xát và mồ hôi; có thể đau hoặc ngứa.
Đỏ da toàn thân do vẫy nến. Vùng da rộng bị đỏ và có vẫy, thường ngứa hoặc đau. Phơi nắng quá mức hoặc một số loại thuốc có thể gây đỏ da toàn thân do vẫy nến.
Điều trị
Điều trị vẫy nến căn cứ vào:
+ Mức độ nặng nhẹ.
+ Mức độ lan rộng trên cơ thể.
+ Loại vẫy nến.
+ Mức độ phản ứng của da đối với điều trị ban đầu.
Có thể thử điều trị như sau, thường theo thứ tự này:
+ Điều trị tại chỗ, trực tiếp lên da.
+ Quang liệu pháp, điều trị bằng ánh sáng.
+ Điều trị toàn thân, uống hoặc tiêm thuốc.
Theo thời gian, da bị tổn thương sẽ trở nên đề kháng với điều trị, đặc biệt là thuốc thoa corticosteroid. Ngoài ra, một liệu pháp hữu hiệu với một người có thể không hiệu quả chút nào đối với người khác. Cách trị thử thường giúp thầy thuốc tìm ra một liệu pháp hữu hiệu. Điều trị có thể cần được thay đổi lần này qua lần khác.
Điều trị tại chỗ
Điều trị trực tiếp lên da đôi khi có thể tẩy sạch vẫy nến.
Các thuốc mỡ corticosteroid có thể cải thiện, nhưng không tẩy sạch hoàn toàn vẫy nến. Sử dụng các steroid mạnh hoặc kéo dài quá lâu có thể khiến vẫy nến trở nặng. Các thuốc tại chỗ từ vitamin D3 có thể kiểm soát sự sinh sản quá mức của tế bào da và làm giảm triệu chứng.
Các thuốc tại chỗ chứa retinoid từ vitamin A có thể kiểm soát vẫy nến. Chúng không có tác dụng nhanh như thuốc mỡ corticosteroid, nhưng lại ít tác dụng phụ. Phụ nữ tuổi sinh con nên sử dụng thuốc tránh thai khi dùng retinoid. Các thuốc tại chỗ khác gồm có mụi than (coal tar), anthralin và acid salicylic. Hãy hỏi thầy thuốc về lợi ích và tác dụng phụ của bất kỳ loại thuốc nào bạn định sử dụng.
Quang trị liệu
Tia cực tím (UV) trong ánh sáng mặt trời khiến tế bào T trong da chết đi. Điều này làm giảm viêm và làm chậm sự sinh sản quá mức của tế bào da vốn tạo nên vẫy. Một dạng được kiểm soát tốt hơn của điều trị bằng ánh sáng nhân tạo có thể được sử dụng đối với vẫy nến nhẹ.
Có hai loại tia cực tím A và B. Quang liệu pháp UV-B sử dụng nguồn sáng nhân tạo. Psoralen và tia UV-A có thể được kết hợp để điều trị, gọi là liệu pháp PUVA. Psoralen là một loại thuốc có thể uống hoặc thoa tại chỗ. Nó khiến cho cơ thể nhạy cảm hơn với tia cực tím. Tuy nhiên, điều trị lâu dài làm tăng nguy cơ bị các ung thư da.
Cơ quan Quản lý Thực phẩm Dược phẩm Hoa Kỳ cũng cho phép sử dụng một thiết bị laser đặc biệt để điều trị vẫy nến nhẹ đến trung bình. Laser này phát ra một chùm ánh sáng được kiểm soát tốt hơn đến vùng da bị tổn thương.
Điều trị toàn thân
Đối với các thể vẫy nến nặng, thuốc toàn thân có thể là tốt nhất. Một số thuốc này ức chế hệ thống miễn dịch, gồm có:
+ Methotrexate.
+ Cyclosporine.
+ Hydroxyurea.
Các loại thuốc ức chế hệ thống miễn dịch có thể có các tác dụng phụ đáng kể. Trong số đó là khả năng dị dạng của trẻ do các bà mẹ sử dụng loại thuốc này sinh ra.
Retinoid là một loại thuốc tương tự vitamin A. Do nó cũng có thể gây ra khuyết tật khi sinh, phụ nữ phải sử dụng một dạng ngừa thai nào đó một tháng trước khi bắt đầu điều trị và kéo dài cho đến 3 năm sau khi điều trị.
Thuốc sinh học là liệu pháp điều trị vẫy nến toàn thân mới nhất. Một ví dụ là Enbrel. Enbrel ức chế miễn dịch và được tiêm dưới da. Nghiên cứu gần đây cho thấy một số thuốc sinh học có thể làm tăng nguy cơ ung thư, nhất là ở trẻ em và ở thiếu niên. Hãy nói chuyện với thầy thuốc về những nguy cơ và lợi ích của các thuốc này.
Do thuốc sinh học là những chất ức chế miễn dịch, chúng có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và ung thư. Các tác dụng hiếm hoi nhưng nghiêm trọng cũng bao gồm các bất thường máu và các bệnh tự miễn như lupus. Các tác dụng phụ khác là các triệu chứng giống như cảm cúm và đau, viêm tại chỗ tiêm.
Một vài bác sĩ chuyên khoa da cho chỉ các thuốc sinh học để trị vẫy nến, hoặc kết hợp với các điều trị tại chỗ. Như Enbrel rất hữu hiệu khi điều trị viêm khớp vốn có thể đi kèm với vẫy nến.
Những kháng sinh có thể giúp ích khi một nhiễm trùng như Streptococcus kích phát đợt vẫy nến, trong một trường hợp vẫy nến giọt.
Tóm tắt
Vẫy nến là một bệnh da thường gặp. Dù đôi khi chúng bùng phát, có những cách điều trị để kiểm soát nó.
Có thể cần phải thử một vài liệu pháp trước khi tìm ra một liệu pháp hữu hiệu. Nhờ những tiến bộ y khoa, ngày càng có nhiều cách điều trị bệnh nhân mắc bệnh vẫy nến, giúp họ sống khỏe mạnh bình thường.
Nguồn: MedlinePlus http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/tutorials/psoriasis/htm/index.htm
Trần Thanh Xuân dịch