Người lớn ngủ từ 7,5 đến 8 giờ mỗi đêm. Mặc dù chức năng của giấc ngủ không được biết rõ, nhiều bằng chứng chỉ rõ việc thiếu ngủ có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng, bao gồm nguy cơ cao mắc bệnh rối loạn ức chế tâm lý, hô hấp ngưng trệ, và bệnh tim. Ngoài ra, buồn ngủ quá đáng vào ban ngày do rối loạn giấc ngủ làm giảm trí nhớ, giảm chức năng xã hội và nghề nghiệp, và đụng xe. Uống rượu có thể gây ra rối loạn giấc ngủ bằng cách làm gián đoạn trình tự và thời gian của các trạng thái ngủ và bằng cách thay đổi tổng thời gian ngủ cũng như thời gian cần để dỗ giấc ngủ. Cảnh báo Rượu này tìm hiểu các tác động của uống rượu trên giấc ngủ, các hậu quả trên sức khỏe có thể có của uống rượu gây ra rối loạn giấc ngủ và nguy cơ tái nghiện của người bệnh nghiện rượu do không phục hồi được giấc ngủ bình thường.
Cấu trúc Giấc ngủ, Bắt đầu ngủ và Thức dậy
Trước khi bàn luận các tác động của rượu trên giấc ngủ, cần tóm tắt một số tính chất cơ bản của giấc ngủ bình thường. Một người trãi qua hai trạng thái ngủ lần lượt, định tính một phần bằng các loại hoạt động điện não khác nhau (sóng điện não). Các trạng thái này được gọi là ngủ sóng chậm (SWS) vì trong loại giấc ngủ này sóng não rất chậm, và ngủ mắt nhanh (REM) vì mắt cử động nhanh dù người ấy đang ngủ.
Phần lớn giấc ngủ là ngủ sóng chậm sâu, yên. Giấc ngủ mắt nhanh xuất hiện từng lúc, chiếm 25% thời gian ngủ ở người trẻ trưởng thành. Các giai đoạn ngủ mắt nhanh thông thường xuất hiện mỗi 90 phút và kéo dài 5 phút đến 30 phút. Ngủ mắt nhanh không yên bằng ngủ sóng chậm và thường đi kèm với giấc mơ. Dù chức năng không được biết rõ, ngủ mắt nhanh có vẻ rất cần cho sức khỏe. Ở chuột, loại bỏ giấc ngủ mắt nhanh có thể đưa đến tử vong trong vòng vài tuần lễ. Ngoài ra, giai đoạn ngủ nông chuyển tiếp xảy ra từng lúc trong suốt giấc ngủ.
Giấc ngủ trước đây được cho rằng do giảm hoạt động của các hệ thống não duy trì sự tỉnh thức. Nhiều dữ liệu mới đây chỉ ra rằng giấc ngủ, cũng như sự tỉnh thức là một quá trình tích cực. Giấc ngủ được kiểm soát phần lớn bởi các trung tâm thần kinh trong cuống não phía dưới, nơi đáy não nối liền với tủy sống. Một số các tế bào thần kinh này bài tiết serotonin, một hóa chất truyền tin liên quan đến việc bắt đầu ngủ và đến việc điều hòa giấc ngủ sóng chậm. Các tế bào thần kinh khác sản xuất norepinephrine, giúp điều hòa giấc ngủ mắt nhanh và giúp thức dậy. Vai trò và sự tác động lẫn nhau của chúng trong việc điều hòa kiểu ngủ không được biết chính xác. Tuy nhiên, uống rượu tác động đáng kể lên chức năng của chúng và lên các hóa chất truyền tin khác có thể có ảnh hưởng đến giấc ngủ.
Rượu và Giấc ngủ ở Người không mắc bệnh nghiện rượu
Rượu uống trước khi ngủ, sau tác động kích thích ban đầu, có thể làm giảm thời gian dỗ giấc ngủ. Do tác động an thần của rượu, nhiều người mất ngủ uống rượu để dễ ngủ. Tuy nhiên, rượu uống trong vòng một giờ trước khi ngủ có vẻ làm gián đoạn phân nửa thứ hai của giấc ngủ. Người này ngủ chập chờn suốt giai đoạn sau, thức giấc vì giấc mơ và ngủ lại khó khăn. Tiếp tục uống rượu trước khi ngủ lâu ngày, tác dụng dỗ giấc ngủ của rượu có thể giảm xuống, trong khi tác dụng gián đoạn lại tiếp tục hoặc tăng lên. Việc gián đoạn giấc ngủ có thể dẫn đến mệt mỏi và buồn ngủ vào ban ngày. Người lớn tuổi đặc biệt có nguy cơ, vì họ sẽ có nồng độ rượu trong máu và trong não cao hơn người trẻ sau khi uống cùng một liều lượng rượu. Uống rượu trước khi ngủ ở người lớn tuổi có thể dẫn đến mất thăng bằng khi cố gắng đi lại trong đêm, với nguy cơ té ngã và bị thương cao.
Rượu bia thường được uống vào chiều tối (“giờ hạnh phúc” hoặc ăn tối) và không uống thêm trước khi ngủ. Các khảo sát cho thấy rằng một liều rượu trung bình uống khoảng 6 giờ trước khi ngủ có thể làm tăng sự thức giấc trong giai đoạn sau của giấc ngủ. Khi tác dụng này xảy ra, liều rượu uống trước đó đã được thải khỏi cơ thể người ấy, khiến người ta nghĩ rằng có một thay đổi tương đối kéo dài trong các cơ chế điều hòa giấc ngủ của cơ thể.
Tác dụng bất lợi của mất ngủ tăng lên sau khi uống rượu. Các đối tượng uống rượu liều thấp sau một đêm thiếu ngủ phản ứng chậm chạp trên một máy tập lái xe, dù rằng không còn chút rượu nào trong cơ thể. Sự tỉnh táo giảm xuống có nguy cơ làm tăng tác dụng an thần của rượu trong tình huống làm ca đêm và khi du hành nhanh qua nhiều múi giờ (hội chứng lệch múi giờ). Người ta có thể không nhận biết mức độ rối loạn giấc ngủ xảy ra trong những tình huống này, do đó làm tăng mối nguy hiểm do mất ngủ và do uống rượu xuất hiện cùng một lúc.
Rượu và Rối loạn hô hấp
Khoảng 2 đến 4% người Mỹ bị ngưng thở tắc nghẽn lúc ngủ (OSA), một rối loạn khi đường thở trên (hầu, nằm phía sau họng) hẹp hoặc đóng trong khi ngủ. Hô hấp bị gián đoạn khiến người ấy thức giấc, sau đó thở lại và ngủ lại. Những lúc ngưng thở – thức giấc có thể xảy ra hàng trăm lần mỗi đêm, làm giảm đáng kể thời gian ngủ và gây ra buồn ngủ lúc ban ngày. Người bệnh nghiện rượu có vẻ có nguy cơ ngưng thở lúc ngủ cao, nhất là nếu họ có ngáy. Ngoài ra, liều rượu trung bình đến cao vào chiều tối có thể làm hẹp đường thở, gây ra ngưng thở lúc ngủ ngay ở những người lúc không uống rượu không có các triệu chứng ngưng thở lúc ngủ. Tác dụng ức chế toàn thân của rượu có thể làm tăng thời gian ngưng thở lúc ngủ, làm xấu thêm tình trạng ngưng thở lúc ngủ sẵn có.
Ngưng thở tắc nghẽn lúc ngủ làm giảm phản ứng trên máy tập lái xe cũng như làm tăng mức độ đụng xe dù bệnh nhân không hề uống rượu. Ở bệnh nhân ngưng thở tắc nghẽn lúc ngủ nặng, uống rượu 2 ly hoặc nhiều ly hơn mỗi ngày có mức độ đụng xe do mệt mỏi cao gấp 5 lần so với những bệnh nhân ngưng thở tắc nghẽn lúc ngủ uống ít hoặc không uống rượu. Ngoài ra, kết hợp với rượu, ngưng thở tắc nghẽn lúc ngủ và ngáy làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim, loạn nhịp tim, đột quỵ và đột tử.
Ảnh hưởng liên quan đến tuổi tác và Tác động của uống rượu
Có ít công trình về ảnh hưởng đặc hiệu của rượu trên tình trạng giấc ngủ ở các nhóm tuổi tác khác nhau. Scher tìm hiểu các ảnh hưởng của phơi nhiễm rượu trước khi sinh lên giấc ngủ trẻ. Số đo hoạt động điện não cho thấy rằng con của các bà mẹ uống rượu ít nhất một ly mỗi ngày suốt ba tháng đầu thai kỳ có gián đoạn giấc ngủ và tăng thức giấc so với con của các bà mẹ không uống rượu. Các nghiên cứu bổ sung phát hiện rằng trẻ phơi nhiễm rượu trong sữa mẹ nói chung dỗ giấc ngủ nhanh hơn nhưng ngủ ít hơn so với trẻ không phơi nhiễm rượu. Tầm quan trọng chính xác của những phát hiện này không rõ ràng.
Tuổi già bình thường gắn liền với việc giảm dần dần giấc ngủ sóng ngắn và tăng tỉnh thức về đêm. Người trên 65 tuổi thường thức giấc 20 lần hoặc nhiều hơn cả đêm, do đó giấc ngủ ít yên và ít bồi bổ hơn. Thiếu ngủ do lớn tuổi có thể thúc đẩy việc sử dụng rượu để dễ ngủ, như thế cũng làm tăng khả năng rối loạn giấc ngủ do rượu ở người lớn tuổi. Nguồn gốc có thể có của sự không thống nhất giữa các kết quả nghiên cứu bao gồm sự khác nhau trong số lượng rượu đã uống, và việc không loại trừ các đối tượng có sẵn rối loạn giấc ngủ.
Ảnh hưởng của rượu lên giấc ngủ ở người bệnh nghiện rượu
Uống rượu và Cai rượu. Rối loạn giấc ngủ do bệnh nghiện rượu bao gồm tăng thời gian dỗ giấc ngủ, thức giấc thường xuyên, và giảm chất lượng giấc ngủ sinh ra mệt mỏi vào ban ngày. Người nghiện rượu nặng cắt giảm rượu đột ngột có thể khởi phát hội chứng cai nghiện, với mất ngủ nặng và giấc ngủ bị phân nhỏ nhiều. Giảm giấc ngủ sóng ngắn trong khi cai nghiện có thể làm giảm thời gian ngủ yên. Có người cho rằng tăng giấc ngủ mắt nhanh có thể quan hệ với những ảo giác đôi khi xảy ra trong hội chứng cai nghiện. Ở bệnh nhân bị hội chứng cai nghiện nặng, giấc ngủ có thể gồm toàn là những giấc ngủ mắt nhanh ngắn, xen kẽ bằng nhiều lần thức giấc.
Hồi phục và Tái nghiện. Dù được cải thiện sau khi hội chứng cai nghiện giảm đi, giấc ngủ của người nghiện rượu có lẽ không bao giờ trở về bình thường, dù đã bỏ uống rượu nhiều năm. Người nghiện bỏ uống rượu có khuynh hướng ngủ ít, giảm giấc ngủ sóng ngắn và tăng tỉnh thức ban đêm, khiến giấc ngủ ít bồi bổ hơn và khiến cho ban ngày mệt mỏi. Uống nhiều rượu trở lại làm tăng giấc ngủ sóng ngắn và giảm thức giấc. Cải thiện giấc ngủ biểu kiến này có thể đưa đến tái nghiện do lầm tưởng rằng uống rượu cải thiện được giấc ngủ. Tuy nhiên, khi tiếp tục uống rượu, giấc ngủ lại trở nên gián đoạn.
Các nhà nghiên cứu cố gắng tiên đoán khả năng tái nghiện rượu bằng cách đo lường sự gián đoạn giấc ngủ. Gillin và cộng sự đo giấc ngủ mắt nhanh ở những bệnh nhân bắt đầu chương trình 1 tháng điều trị bệnh nghiện rượu. Mức giấc ngủ mắt nhanh cao dự báo 80% những người này tái nghiện trong vòng 3 tháng sau khi xuất viện. Tổng quan nghiên cứu bổ sung kết luận rằng những người rồi sẽ tái nghiện có tỉ lệ giấc ngủ mắt nhanh cao, và tỉ lệ giấc ngủ sóng ngắn thấp khi bắt đầu điều trị, so với những người sẽ giữ được không uống rượu. Mặc dù cần nghiên cứu thêm, các phát hiện này có thể tạo thuận lợi cho việc xác định sớm những bệnh nhân có nguy cơ tái nghiện và cho phép thầy thuốc điều chỉnh chương trình điều trị họ cho phù hợp.
Nguồn: National Institute on Alcohol Abuse and Alcoholism
http://pubs.niaaa.nih.gov/publications/aa41.htm
Trần Thanh Xuân dịch