Trong y học có những ngộ nhận bắt nguồn từ những nhận xét ngẫu nhiên, sau đó trở thành niềm tin của nhiều người. Xóa bỏ những ngộ nhận, niềm tin cũ ấy không dễ nhưng chân lý khoa học cuối cùng sẽ thắng, nếu không như vậy thì y học không tiến lên được.
Sự cáo chung của liệu pháp vi lượng đồng căn
Xa xưa, một số thầy thuốc dùng liệu pháp vi lượng đồng căn, nghĩa là chỉ cần đưa vào cơ thể một số lượng bằng nhau các chất vi lượng thì sẽ chữa khỏi bệnh. Trong số các vi lượng đưa vào cơ thể, cũng có vi lượng trùng với vi lương cơ thể đang thiếu nên cho hiệu quả, song cũng có khi tuy có trùng nhưng chưa đạt ngưỡng cần thiết thì chưa chắc có hiệu lực. Có lẽ vậy, sau này người ta thấy liệu pháp này không cho kết quả chắc chắn. Ngày nay chúng ta áp dụng liệu pháp vi lượng một cách có khoa học: Vi lượng tham gia quá trình chuyển hóa trong cơ thể bằng cách cấu thành hay tác động lên các enzym chuyển hóa. Khi vi lượng ấy bị thiếu hụt, không đạt được nồng độ ở ngưỡng sinh lý, thì các hoạt động chuyển hóa bị rối loạn; khi cung cấp cho cơ thể số vi lượng bị thiếu hụt đó, sẽ lặp lại cân bằng chuyển hóa, chữa khỏi bệnh.
![]() Với tiến bộ y học, việc điều trị cho bệnh nhân tai biến mạch máu não có nhiều triển vọng phục hồi tốt. |
Rút lại lời khuyên cho trẻ ngủ nằm sấp để tránh đột tử
Trước đây, một số thầy thuốc đưa ra lời khuyên cho trẻ dưới 2 tuổi ngủ trong tư thế nằm sấp sẽ tránh được đột tử. Có thể điều này xuất phát từ một số nhận xét có thật trên một số nhỏ trẻ nhưng không có ý nghĩa thống kê, chỉ là sự ngẫu nhiên, chưa có cơ sở khoa học. Sau này, các nhà y học tổng kết lâm sàng nhận thấy: làm theo lời khuyên này không những không hề giảm mà còn có nguy cơ cao gây đột tử.
Các nhà khoa học đã chỉ ra nhiều nguyên nhân gây suy hô hấp dẫn tới đột tử lúc ngủ và chỉ ra cách đề phòng cho trẻ theo từng nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân gây suy hô hấp đó là cho trẻ em dưới 2 tuổi dùng phenothiazin (siro phenergan, siro alimimerazin). Chất này có tác dụng phụ rất nguy hiểm, làm suy hô hấp, ngừng thở, có thể gây đột tử cho trẻ em lúc ngủ.
Không thể chữa viêm loét dạ dày chỉ bằng thay đổi chế độ ăn, lối sống
Sau Thế chiến lần thứ nhất (1914 – 1918), tỷ lệ viêm loét dạ dày tăng lên. Nhiều thầy thuốc cho rằng vì trong chiến tranh, việc ăn uống kham khổ (nhất là ăn lương thực khô), và tinh thần luôn luôn bị căng thẳng khiến cho nhiều người bị viêm loét dạ dày. Từ đó, ngoài liệu pháp trung hòa acid ở dạ dày, các thầy thuốc khuyên người bệnh phải ăn cơm nát, không ăn các chất khô cứng, chất chua, tạo ra chế độ làm việc nghỉ ngơi thoải mái. Song, nhiều người bệnh làm như vậy mà chứng viêm loét dạ dày vẫn không thuyên giảm.
Năm 1982, các nhà nghiên cứu bệnh học người Úc là J Robin Waren, Barry Marsall đã phát hiện ra vi khuẩn H. Pylori gây viêm loét dạ dày. Theo đó, H.Pylory xâm nhập cơ thể chủ yếu bằng đường ăn uống, gắn vào biểu mô trong lớp chất nhầy, sản sinh ra enzym urease, biến urê thành ammoniac, carbonic tạo ra môi trường gần trung tính, né tránh môi trường acid khá cao trong dạ dày, né tránh sự đáp ứng miễn dịch để tồn tại khi có điều kiện thì gây ra bệnh. Kể từ khi có phát minh này, nhất là khi hai ông được giải Nobel y học (2005), việc dùng kháng sinh chữa bệnh viêm loét dạ dày trở thành phổ biến.
Từ bỏ quan niệm tuyệt vọng khi bị tai biến mạch máu não
Trước năm 1960, người ta cho rằng sự sinh thần kinh bắt đầu từ tuần thứ 3 của thai kỳ, các tế bào thần kinh phát triển rất nhanh (250.000 tế bào mỗi phút) và sau vài năm thì chấm dứt. Theo đó, tế bào thần kinh không có khả năng bị phân chia, nếu bị tổn thương sẽ không thể có tế bào thay thế. Do vậy, khi bị tai biến mạch máu não, dùng cách tưới bù máu hay dùng cerebrolysin trong vòng 72 giờ kể từ khi xảy ra tai biến chỉ nhằm cứu vãn những tế bào thần kinh ở vùng nửa tối (đã ngừng hoạt động nhưng chưa chết), sau 72 giờ, các tế bào đó chết, việc dùng cerebrolysin sẽ vô ích!
Trước đây, người ta cũng cho rằng não như một cỗ máy hoạt động theo cơ chế có sẵn từ trước và khi tổn thương là không thể hồi phục. Sau này, các nhà y học thấy rằng, não có khả năng thay đổi về mặt giải phẫu (sinh ra tế bào thần kinh mới, tạo các đường nối tiếp mới) và thay đổi về mặt sinh lý (tế bào mới sinh ra đảm nhận các chức năng của tế bào thần kinh). Hiện tượng này gọi là tính khả biến thần kinh (neuroplasticity) tức là sự sửa chữa và học lại (repairing and learning).
![]() |
Theo quan niệm cũ, tai biến mạch máu não là cách kết thúc cuộc đời không có cách nào cải thiện, đảo ngược. Còn theo quan niệm mới, việc điều trị có tính lạc quan hơn, có thể phục hồi hoạt động não sau tổn thương bằng cách dùng các thuốc kích thích quá trình sinh thần kinh, khả biến thần kinh. Một trong những thuốc có tính năng này là cerebrolysin.
Lời kết
Ngày nay, một số nghiên cứu của các nhà khoa học đã xét lại một cách nghiêm túc những ngộ nhận về niềm tin chữa bệnh ở trên và vạch ra các cơ sở khoa học, từ đó đưa ra các cách điều trị mới, dùng thuốc mới. Những nghiên cứu mới này thường được đăng tải trong các tập san nghiên cứu y học nổi tiếng (như JAMA, NEJM, AJMJ) và phần lớn đều được dịch đăng trong các tập san thông tin y học của nước ta. Cần tiếp cận những thông tin này để khỏi bỡ ngỡ, dĩ nhiên việc áp dụng thế nào cho phù hợp sẽ do Bộ Y tế và các hội y học, dược học, các hội chuyên khoa hướng dẫn.
DSCKII. Bùi Văn Uy